Phần 1: ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC VÀ ĐIỀU
KIỆN SINH THÁI
Đối với cây chanh dây điều kiện về khí hậu
thời tiết, độ cao ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình sinh học của chúng như: ra hoa, thụ phấn, thụ tinh, sự phát triển của
quả non và quả trưởng thành cũng như chất lượng quả (São José, 1993).
Đặc điểm thực vật học: Cây chanh
dây (còn gọi là cây Lạc tiên, mác mác), tên khoa học Passifloraedulis Sims,
thuộc họ lạc tiên Passifloraceae, bộ Violales.
Chi Passiflora hiện có hơn 400 loài, trong đó có khoảng 60
loài cho trái ăn được. Lạc tiên là một loại dây leo, thân nhỏ, hình trụ có rãnh
dọc, nhiều lông thưa. Cây mọc leo có khi dài tới hàng chục mét, lá mọc xen,
mang lá kèm ở mỗi đốt. Cuống lá dài 2-5cm, mang phiến lá có 3 thùy dài, kích
thước lá 10-15 x 12-25cm, bìa phiến có răng cưa nhỏ, tròn đầu. Hoa mọc ở kẽ lá,
màu trắng hồng, đài 5 cánh màu xanh lục, cánh hoa dài 2-2,5cm, tràng 5 cánh rời
nhau, xếp xen kẽ với các lá đài; tràng phụ do 4-5 hàng sợi trắng, gốc tím,
cuống nhụy dài 1,5cm. Trái hình cầu đến bầu dục, kích thước 4-12 x 4-7cm, màu
tím sậm hay vàng chanh, tự rụng khi chín. Hạt có nhiều áo, hạt màu cam. Hạt rất
mau mất sức sống (chỉ vài tuần), cây con trồng hạt rất yếu, không đồng đều, dễ
nhiễm bệnh vì vậy không nên trồng bằng hạt. Nên trồng lạc tiên bằng cây ghép,
giâm cành (bằng cành bánh tẻ), dễ cho nhiều nhánh khỏe bò lan. Lạc tiên cần
nhiều ánh sáng để ra hoa và đậu trái, mầm hoa mọc từ các chồi nách, từ khi thụ
phấn đến trái chín là 60-70 ngày (giống trái vàng) hoặc 70-80 ngày (giống trái
tím).
+
Chanh dây quả tím (Passiflora edulis Sims): Là loại cây leo lâu
năm, lá có 3 khía, màu xanh, có răng cưa, gốc hình quả tim, hoa nở vào sáng
sớm, trước trưa hoa cụp lại. Cành mới ra mỗi đốt có một hoa, quả hình tròn hoặc
hình trứng đường kính khoảng 4-5cm, khi chín quả có màu tím đậm. Vỏ quả cứng,
hạt đen, nhỏ nhiều hạt. Thịt quả vàng, thơm dịu, nhiều nước, có vị chua nhưng
rất dễ chịu và cho hương vị trái ngon.
+
Chanh dây quả vàng (Passifalora edulis F.flavicarpa Degener). Tương
tự loại quả tím nhưng phát triển mạnh hơn. Thân, gân, lá, râu leo màu hồng, hoa
tím hồng. Gốc hoa màu tím thẫm, quả lớn, vỏ màu vàng, vị thịt quả chua. Hạt màu
nâu sẫm. Hoa nở vào ban trưa, 9-11 giờ.
* Yêu cầu về điều kiện sinh thái: chanh dây đòi hỏi khí hậu ấm và
ẩm, lượng mưa trung bình từ 1.600 mm đến hơn 2000 mm. Lượng nước cần phân bố
đều do
cây ra hoa và cho trái quanh năm nên nhu cầu lượng nước cần phân bố liên tục mỗi
tháng khoảng 80 đến 120 mm,
nhiệt độ thích hợp từ 21 -28oC, tối ưu là 23 -25oC; độ ẩm
không khí từ 70 - 80%; độ ẩm đất khoảng 60% (São José, 1993; Lima and
Borges, 2002, Martins et al., 1998, Oliveira et al., 2002).
Đối
với cây chanh dây quả tím thích hợp vùng á nhiệt đới, cao độ > 800m so mặt
biển cho chất lượng quả tốt, ngược lại giống quả vàng thích hợp vùng nhiệt đới,
độ cao 100 - 600m (São José, 1993).
Phần
2: Điều kiện đất
đai và kiến thiết vườn cây
Những yêu cầu về đất: có tầng canh tác sâu
từ 60cm trở lên, đặc biệt tầng đất mặt phải tơi xốp thông thoáng và thoát nước
tốt bởi vì trên 60% rễ tơ của cây chanh dây phát triển ở tầng đất mặt 0 đến
20cm, loại rễ này rất quan trong trong quá trình hấp thu chất dinh dưỡng. Hàm
lượng chất hữu cơ trong đất là một yếu tố rất quan trong cho sự sinh trưởng
phát triển của cây, chanh dây cần hàm lượng chất hữu cơ từ 2% trở lên tốt, đất
càng nhiều mùn thì càng tốt và kéo dài tuổi thọ cho vườn chanh dây. Do vậy ở những
vùng đất cát pha, xám gnai hay đất sa cấu cát cần chú ý đến bổ sung phân hữu cơ
để duy trì độ mùn trong đất.
- Làm đất và xử lý đất để diệt trừ mầm móng sâu
bệnh, cỏ dại trước khi xuống giống là cần thiết bằng cách cày sâu 30-35cm phơi ải
đồng thời bón vôi để xử lý mầm bệnh.
-
Thiết kế lô: những nơi đất bằng phẳng, độ dốc <80, vườn trồng có
thể thiết kế lô rộng từ 3m đến 6m đào hố có kích thước 45cm x 45cm x 45 cm hoặc
60cm x 60cm x 60cm, khi
đào để riêng lớp đất mặt (dày 20 -
25 cm) sang 1 bên, lớp đất dưới sang 1 bên. Trồng trên đất dốc, hàng cây phải bố trí theo đường đồng mức
để thuận lợi cho việc vận chuyển vật tư, chăm sóc và thu hoạch, làm hố theo
băng đồng thời trồng cỏ hoặc cây chống xói mòn đất. Mật độ trồng tùy theo mức
độ thâm canh, địa hình mà khoảng cách có thể 3 x 2,5m = 1.330 cây/ha; hoặc 3 x
3 m = 1.100 cây/ha; hoặc 3 x 4m = 850 cây/ha, nhưng tốt nhất là khoảng cách 3 x
4m.
-
Sau khi đào hố xong đối với đất đã qua canh tác các loại cây trồng khác thì cần
bón vôi + Thuốc BVTV (Bassudin) để tiêu diệt mầm bệnh trong đất và điều chỉnh
độ pH của đất. Đối với đất mới khai hoang chỉ cần bón vôi với lượng từ 0,5 đến
0,7kg/hố sau đó lấp một lớp đất mỏng để qua vài cơn mưa hoặc tưới đẫm nước nếu
không có mưa. Bước tiếp theo bón lót phân chuồng (bò, dê, heo, gà) đã ủ hoai
với lượng 10 đến 15kg/hố + 0,5 kg phân lân nung chảy đối với đất chua (hoặc
super lân đối với đất trung tính) sau đó lắp một lớp đất mỏng lại để khoảng 15
đến 20 ngày sau tiến hành đảo đều phân chuồng với đất lót thêm khoảng 25g NPK
tốt nhất là loại 20-20-15 hoặc DAP và trồng cây xuống nếu không gặp mưa cần
tưới nước ngay. Sau đó rắc thuốc xung quanh để tránh mối, kiến, dế cắn phá.
Dùng cây chống cắm xung quanh và dùng các vật liệu che chắn nhằm hạn chế gió.
*
Lưu Ý: Trước khi trồng cần chú ý kiểm tra độ pH đất (hay còn
gọi là phản ứng của môi trường đất) đây là một chỉ tiêu rất quan trọng đối với
quá trình sinh trưởng phát triển cũng như hấp thu dinh dưỡng của cây trồng và
khả năng hữu dụng của các nguyên tố dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng hay nói
cách khác là hiệu quả sử dụng phân bón của cây.
Mỗi cây trồng có một khoảng pH tối thích
mà ở đó hệ rễ cây trồng sinh trưởng phát triển tốt và khả năng hấp thụ dinh dưỡng
cũng tối ưu. Vậy trong quá trình canh tác bà con nông dân nên chú ý đến trị số
pH đất tối thích cho loại cây trồng của mình, như đối với cây canh dây pH tối
thích cho chúng sinh trưởng phát triển năm trong khoảng 6,0 đến 7,0.
Theo nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học
thổ nhưỡng cũng như dinh dưỡng cây trồng về hiệu quả sử dụng phân khoáng NPK của
cây trồng khi bón vào đất là phụ thuộc vào pH đất. Tổng hợp lại Hiệp hội Phân
bón thế giới (IFA) đã đưa ra khuyến cáo sau.
pH đất
|
% lượng phân bón cây trồng có thể hấp
thu
|
N
|
P
|
K
|
4,5
|
30
|
23
|
33
|
5,0
|
53
|
34
|
52
|
5,5
|
77
|
48
|
77
|
6,0
|
89
|
52
|
100
|
7,0
|
100
|
100
|
100
|
Đa, trung lượng
|
kg/ha
|
N
|
205
|
P
|
17
|
K
|
184
|
Ca
|
152
|
Mg
|
14
|
S
|
25
|
Vi lượng
|
g/ha
|
Bo
|
296
|
Fe
|
779
|
Mn
|
2810
|
Zn
|
317
|
Cu
|
199
|
Đa,
trung lượng
|
g/kg
(chất khô)
|
N
|
47,5
– 52,5
|
P
|
2,5
– 3,5
|
K
|
29,0
– 25,0
|
Ca
|
5,0
– 15,0
|
Mg
|
2,5
– 3,5
|
S
|
2,0
– 4,0
|
Vi
lượng
|
mg/kg
(chất khô)
|
Bo
|
2,0
– 4,0
|
Cu
|
5,20
|
Fe
|
100
- 200
|
Mn
|
50 -
200
|
Zn
|
45 -
80
|
Ngoài ra khi pH đất ở mức 6,0 đến 7,0 sẽ
kích thích cho các chủng vi sinh vật có lợi phát triển mạnh (Vi khuẩn cố định đạm,
vi khuẩn phân giải lân, phân giải chất hữu cơ,…) đồng thời hạn chế được sự phát
triển của các vi sinh vật gây hại cho cây trồng phát triển đa số là các vi nấm
gây thối rễ (vì chúng thích nghi với môi trường pH thấp).
Vậy làm sao để biết pH đất của vườn mình
là bao nhiêu? Điều quan trọng là chúng ta phải lấy mẫu đất gửi đến các trung
tâm kiểm nghiệm đất để xác định pH đất của vườn (biện pháp này là chính xác nhất
nhưng hơi tốn kém và mất thời gian) hoặc có thể dùng máy đo pH cầm tay đo ngay
tại vườn hoặc có thể dùng bộ test nhanh pH thông qua phương pháp so màu khi đất
phản ứng với dung dịch thuốc thử.
* Thiết kế giàn cho chanh dây: Hiện nay có
2 kiểu giàn: truyền thống và chữ T
+ Đối với giàn truyền thống: Kỹ thuật làm giàn trồng chanh dây có ảnh hưởng lớn đến việc ra hoa và đậu trái của cây chanh
dây vì cây chỉ ra hoa ở các mặt đầu cành thứ cấp nằm ngoài mặt tán. Làm giàn
theo kiểu truyền thống giúp tiết kiệm không gian cây chanh bò thỏa mái không tốn
nhiều công để vắt ngọn năng suất cao giai đoạn đầu nhưng phải tốn nhiều nhân công
tỉa lá già và chồi nhánh để ánh sáng tiếp xúc bề mặt tán lớn, hạn chế nấm bệnh.
Nên làm giàn cao 1,8 - 2,2m với các trụ tre, gỗ hoặc bê tông, khoảng cách các cột
nên cắm theo khoảng cách trồng; bên trên căng lưới thép với khoảng cách ô vuông
40 x 40cm cho cây leo.
+ Đối với giàn chữ T: Cách làm của bà con khá đơn giản:
Cọc được chôn cao khoảng 1,8 - 2,2m; cọc cách cọc từ 2,8 - 3m; giữa cách cọc là
hệ thống dây kẽm để dây chanh dây bò theo phương thẳng đứng và cả bò xiên, bò
ngang. Giữa hai hàng (luống) chanh dây là lối đi lại chừng 0,5m đến 1m kiểu giàn
này sẽ ít tốn không gian, cây sẽ nhận được nhiều ánh sáng.
Theo bà con, nguyên vật liệu của cách làm này ít tốn
hơn cách làm giàn kiểu truyền thống, lại có tuổi thọ cao hơn kiểu giàn hình chữ
T. Đặc biệt là năng suất của chanh dây cao hơn so với trồng giàn truyền thống
(khoảng 10 - 15%); thu nhập cũng cao hơn. Do
cây có khả năng quang hợp cao hơn; dễ bón phân, làm cỏ hơn; cùng với
trồng chanh dây, bên dưới các luống còn có thể trồng xen một số cây trồng khác
như đậu phộng, đậu đen, đậu nành, đậu xanh, đậu tương, các loại rau... (vừa để
tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích và vừa cải tạo đất).
* Tạo
tỉa tạo tán cho cây giàn chanh dây:
Cây chanh dây sinh trưởng khoẻ, phân cành
nhiều, nhanh, nên cần cắt tỉa thường xuyên, đúng kỹ thuật để cây ra nhiều hoa.
Mục đích là tạo bộ khung chính mang các cành quả phân bố đều, khả năng tiếp nhận
ánh sáng tốt, tập trung chất dinh dưỡng cho những cành cho quả phát triển đầy đủ
và cân đối, hạn chế sâu bệnh và duy trì khả năng sinh trưởng, phát triển trong
những năm tiếp theo.
Cây mới trồng phát triển chiều cao
khoảng 1m thì bấm bớt lá gốc. Cây có bộ lá to, dày, xanh tốt, không bị nấm bệnh
là biểu hiện cây sinh trưởng khỏe mạnh, đồng thời lá to sẽ giúp cây trao đổi
chất tốt hơn do vậy cần chú ý bảo vệ. Khi cây cách giàn từ 20 - 30 cm thì để từ 4 đến 5 cành
cấp một, các cành này được phân bố đều theo các hướng trên giàn, mỗi cành cấp
một để từ 4 - 5 cành cấp hai là những cành cho quả.
Khi cây đã lên giàn việc cắt tỉa tạo tán nên làm
thường xuyên tạo ra các cành thứ cấp mới phân bố đều trên mặt giàn giúp cho cây
ra hoa đậu trái được tốt hơn.
Việc tạo hình, tỉa cành thường xuyên, đặc biệt là tỉa bớt lá vào thời kỳ
mùa mưa vừa để hạn chế nấm bệnh phát triển gây hại đồng thời nhằm ức chế sinh
trưởng, giúp cho cây ra nhiều nụ, đậu nhiều trái.
Sau thu hoạch cắt hết tất cả các cành
thứ cấp đã cho quả trên mặt giàn, cây sẽ ra chồi mới, phân cành cấp 2, 3 và các
cành quả. Nếu chanh dây không được tỉa hoàn toàn vào cuối năm, sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến sinh trưởng và phát triển, đặc biệt làm hạn chế đến năng suất các năm
sau.
* Tưới nước: Cây chanh dây là loại cây cần độ ẩm cao, lượng
nước nhiều và thường xuyên vì vậy thường tưới 2 ngày 1 lần vào mùa khô cần tưới
lượng nước nhiều hơn sẽ giúp cho cây ra chồi, ra hoa và đậu quả liên tục, yêu
cầu nước nhiều ở giai đoạn làm trái và phát triển trái nếu thiếu nước sẽ
làm rụng hoa, trái hoặc trái teo lại.
Phần
3: Phân bón cho cây
chanh dây
- Phân hữu cơ rất cần thiết cho trong quá
trình sinh trưởng phát triển của cây chanh dây, nhất là phân chuồng ủ hoai theo (Borges et
al., 2002), cần bón lượng từ 20 đến 30 tấn phân chuồng/ha/năm. Ngoài ra phân hữu
cơ còn cải tạo đất làm tăng độ phì nhiêu của đất góp phần phát triển bền vững
vườn chanh dây hơn, mặt khác trong phân chuồng có chứa đầy đủ và cân đối các
nguyên tố dinh dưỡng đặc biệt là các nguyên tố vi lượng và siêu vi lượng.
- Phân hóa học (vô cơ): Chanh dây là loại
cây trồng cho năng suất cao do vậy nhu cầu về dinh dưỡng đa, trung và vi lượng
là rất qua trọng đối với quá trình sinh trưởng phát triển cũng như hình thành
năng suất. Theo Haag et al., (1973):
nhu cầu dinh dưỡng trong một năm cây cần nhiều nhất N, K và Ca tiếp đến là P, S
và Mg đối với vi lượng cây hấp thu nhiều nhất là Mn, Fe tiếp đến là Zn, Bo và
Cu đặc biệt Zn với Bo rất cần thiết trong quá trình ra hoa và nuôi trái non. K
được tích lũy trong quả là lớn nhất nó tham gia vào tạo chất lượng cho quả, tiếp
đến N. Đối với vi lượng thì sự tích lũy Zn (34%), Cu (32%) và Bo (11%) trong
trái cao hơn so với Mn và Fe.
Với mật độ là 1500 cây/ha thì hàm lượng
dinh dưỡng cây lấy đi hàng năm theo Haag và
ctv (1973) là:
- Hàm lượng dinh dưỡng
trong lá chanh dây theo IFA, 1992
- Theo nhiều nghiên cứu của các nhà dinh
dưỡng cây trồng đặc biệt là ở vùng Châu Mỹ La Tinh đã đưa ra khuyến cáo tổng lượng
phân bón sử dụng cho chanh dây trong một năm với năng suất khoảng 50 đến 70 tấn/ha
cần 300 – 320 kgN; 100 – 120 kg P2O5; 350 kg K2O
cho 1 ha.
Do vây, ngoài việc bón phân đa lượng NPK
thì bà con nông dân cần chú ý đến bón bổ sụng trung vi lượng cho cây để cân đối
dinh dưỡng đáp ứng nhu cầu sinh trưởng phát triển của cây.
*
Vai trò của các nguyên tố dinh dưỡng đa, trung và vi lượng đối với cây chanh
dây
1.
Nguyên
tố nitơ (N):
Đối
với chanh dây hàm lượng N trong cây biến động từ 47,5 – 52,5 g/kg trọng lượng
khô ở lá. Đạm được cây lấy từ đất ở dạng NH4+ và NO3-,
sau đó kết hợp với các hợp chất mà cây đồng hóa được nhờ năng lượng của ánh
sáng mặt trời để tạo thành các amino acid và protein. Đạm là động lực cho quá
trình sinh trưởng của cây bao gồm cả quá trình hình thành năng suất. Đạm tham
gia cấu thành năng suất từ 32,6 – 49,4%. Cung cấp đầy đủ một lượng đạm thích hợp
sẽ giúp cho cây hút các chất khác tốt hơn, đặt biệt là kali. Mức đạm trong đất
1,0 g/kg cần thiết cho cây chanh dây.
Thừa
N: Bón thừa đạm, do cây phải hút nhiều nước để giảm nồng độ amôn (NH4+)
trong cây nên tỉ lệ nước trong thân lá cao, cành vươn dài, mền mại, che bóng lẫn
nhau ảnh hưởng đến quang hợp. Mặc khác bón đạm nhiều làm tăng lượng hữu cơ hòa
tan (amin, amit) trong cây, cành nhiều, cây dễ mắc bệnh, tỷ lệ diệp lục trong
lá cao, lá có màu xanh tối hấp dẫn côn trùng nên thường bị sâu bệnh phá hoại mạnh.
Bón thừa đạm, cây không dùng hết, đất không giữ lại được (như trên các loại đất
nhẹ, nghèo hữu cơ) nên đạm bị kéo xuống sâu (trực di), hoặc bị rửa trôi làm ô
nhiễm nguồn nước.
Thiếu
N: cây sinh trưởng kém, mất cân đối, toàn cây lá có màu vàng, kích thước lá và
chồi nhỏ hơn bình thường. Trường hợp thiếu N trầm trọng thì toàn cây bị vàng, rụng
trái non, cây phát triển chồi non kém.
Khắc
phục: có thể dùng ure 0,1 – 0,3% hoặc dung dịch đạm sun phát amôn (SA) với nồng
độ 0,2 – 0,4% phun 2 lần trên lá cách nhau từ 15 – 20 ngày. Sau đó bổ sung đạm
vào đất.
2.
Nguyên
tố phốt pho (P):
Đối
với chanh dây hàm lượng lân (P) trong lá, cành và thân cây biến thiên từ 2,5 –
3,5g P2O5/kg chất khô. Lân có vai trò trong phát triển rễ
đặc biệt khi ở giai đoạn cây còn non. Lân giúp cho quá trình ra hoa, thụ phấn,
thụ tinh thuận lợi và hình thành quả non tốt hơn, giúp cây dự trữ tinh bột,
cùng với kali tăng khả năng chống chịu của cây. Mặc khác lân tham gia cấu thành
các chất dự trữ cao năng lượng như ATP, ADP, NADP. Lân tham gia cấu thành axit
nucleic, axit photphoglyxeric, photpholypit,… Lân chỉ tham gia cấu thành năng
suất từ 7,8 – 8,6%. Lượng lân cần thiết duy trì trong đất ở mức 6mg/kg là tốt
cho cây. Dinh dưỡng lân có liên quan mật thiết với dinh dưỡng đạm, cây được bón
cân đối đạm – lân sẽ phát triển xanh tốt, khỏe mạnh (ít sâu bệnh), nhiều hoa
sai quả và phẩm chất nông sản tốt.
Thừa
lân: Cây hút kẽm (Zn) yếu bởi thừa P làm giảm Zn dễ tiêu trong đất, xuất hiện
hiệu ứng hòa loãng đối với Zn trên ngọn cây do P tăng cường sinh trưởng của
cây, làm nhiễu loạn chức năng của Zn (theo Olssen, 1972 và Katyal, 1992). Vậy
thừa lân đối với cây thường dẫn đến cây thiếu Zn.
Thiếu
lân thường xuất hiện ở lá già và các cành sai quả. Lúc đầu lá có màu vàng sáng
sau đó chuyển sang đỏ thẫm hoặc nâu đỏ pha tím, đôi khi có màu huyết dụ. Đầu
tiên lá biến màu ở một phần (thường ở gân lá), cuối cùng cả lá biến màu và rụng.
Khắc
phục: Cần quan tâm bón lân đầy đủ cho cây thời kỳ kiến thiết cơ bản. Khi mới trồng
cần bón từ 500 – 700g lân (dạng phân nung chảy như lân Văn điển, Ninh Bình hoặc
supe, nhưng tốt hơn hết nên dùng lân nung chảy).
Trường
hợp bị thiếu trầm trọng có thể dùng hợp chất phốt phát kali (KH2PO4
hoặc K2HPO4) với nồng độ 0,2 – 0,3% phun trên lá 2 lần,
cách nhau 20 – 30 ngày nhằm chữa trị nhanh triệu chứng thiếu lân.
3. Nguyên tố kali (K):
Có thể nói rằng
kali là một nguyên tố dinh dưỡng cây chanh dây cần cao trong suốt giai đoạn
kinh doanh, hàm lượng kali chứa trong cây biến động từ 29,0 – 25,0 g K2O/kg
chất khô, đặc biệt kali tích trữ trong trái rất cao chiếm khoảng 3,01g/kg. Kali
tham gia vào hoạt tính của hơn 60 enzim, giúp hình thành và vận chuyển hydrat
cacbon, quá trình tổng hợp protein và các hợp chất hữu cơ trong cây. Kali làm
tăng khả năng hút nước, giúp cây tăng được khả năng chịu hạn, chịu rét và chịu
mặn, Kali có tác dụng làm giảm tỉ lệ rụng quả, tăng trọng lượng quả, đồng thời
cũng làm cho cây ít bị nhiễm sâu bệnh hơn do cây sinh trưởng phát triển khoẻ
hơn. Do tác động đến quá trình hô hấp và quang hợp, kali ảnh hưởng tích cực đến
việc trao đổi đạm và tổng hợp protein. Thiếu kali mà nhiều NH4+,
NH4+ tích lũy độc cho cây. Do vậy, kali hạn chế việc tích
lũy nitric trong lá. Kali tham gia cấu thành năng suất từ 27,4 – 44,7% và chất
lượng quả.
Bón
thừa kali: sẽ đối kháng với quá trình cây hút Mg, B và đạm. Nhưng bón kali cân
đối cây sẽ tăng cường hút đạm, do vậy ranh giới giữa hiệp đồng và đối kháng là
rất mong manh (Vũ Hữu Yêm, 1982, 1985). Do vậy, cần chú ý đến việc bón cân đối
lượng dinh dưỡng giữa các nguyên tố phân bón để phát huy hết tác dụng của phân
bón.
Thiếu
kali thường biểu hiện ở các lá già, trên cành mang nhiều quả. Các vệt màu nâu
thường xuất hiện ở rìa mép lá già, rồi lan dần vào giữa phiến lá, cuối cùng thì
lá rụng. Thời kỳ cây mang quả nếu thiếu kali quả sẽ bị rụng nhiều, quả sẽ nhỏ lại,
quả chín không đẹp.
Khắc
phục: Bón đầy đủ lượng kali theo nhu cầu của cây dựa trên đặc tính đất đai của
từng vùng và năng suất thu hoạch, nhất là giai đoạn kinh doanh.
Chữa
trị thiếu kali tức thời để chống rụng quả non có thể dùng KH2PO4
hoặc K2HPO4 với nồng độ 0,3 – 0,4% để phun cho cây cách
nhau 20 đến 30 ngày nhằm chữa trị nhanh triệu chứng này.
4. Canxi (Ca): Sau Đạm và Kali thì Canxi là chất cây
chanh dây hút nhiều nhất, do trong đất vốn có nhiều nên bà con ít chú trọng.
Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học dinh dưỡng cây trồng cho thấy rằng
lượng Canxi cây chanh dây lấy đi của đất gần gấp 3 lần lân nên cần chú trọng
bón trả để nâng cao độ pH, tạo điều kiện cho các vi sinh vật có lợi phát triển.
Thực tế đất đai ở Tây Nguyên lại rất nghèo chất Canxi và Lưu huỳnh, có thể là
do phát sinh học, mặc khác do quá trình canh tác bị rửa trôi và cây trồng lấy
đi để cho năng suất mà nông dân không chú trọng bổ sung lại trong quá trình
canh tác nên dẫn đến đất ở Tây Nguyên nghèo Canxi.
Canxi được bón thông qua việc bón Vôi (Vôi từ đá vôi tốt chứa khoảng 90%
CaO, Vôi sò chứa khoảng 50% CaO), phân Super Lân (chứa khoảng 30% CaO), phân
Lân nung chảy hoặc đôlômit (chứa khoảng 35 - 38% CaO).
Hàm lượng Canxi trong lá chanh dây dao động từ 5,0 – 15,0 g/kg chất khô,
(tính theo trọng lượng khô).
Về mặt sinh lý dinh dưỡng, canxi tham gia chủ yếu vào cấu tạo tế bào, làm
tăng tính chịu độc nhôm và mangan của cây (canxi kết tủa pectic tạo thành
pectat canxi, thành phần quan trọng của vách tế bào, do vậy giữ cho thành tế
bào được vững chắc). Canxi duy trì cân bằng anion-cation trong tế bào. Trong
sinh lý dinh dưỡng, Ca2+ đối kháng với nhiều cation khác (Mg2+,
K+, Na+, NH4+) nên canxi hạn chế sự
xâm nhập quá đáng của các cation này vào tế bào. Do vậy, canxi được xem là yếu
tố chống độc cho cây [2, 13, 18].
Hiện tượng thiếu Canxi đối với chanh
dây thường hiếm thấy trên đồng ruộng. Tuy nhiên khi thiếu lá non bị vàng từ rìa
lá lan dần vào giữa phiến lá. Lá có màu xanh tối dọc hai bên gân chính của lá,
có khi màu xanh này rất nhạt. Chóp lá cong không đều vào phía trong, gãy cành,
rễ kém phát triển nên dễ bị sâu bệnh tấn công. Khi bị nặng, lá già cũng có
triệu chứng như trên.
Khắc phục: Bón vôi hoặc đôlômít hoặc lân nung chảy với lượng từ 500 –
700kg/ha sẽ cung cấp đủ Ca cho cây.
5. Magiê (Mg): Rất cần cho sự quang hợp, chuyển hóa
dinh dưỡng, giúp cây sinh trưởng mạnh mẽ, xanh tốt, trái to, chắc hạt, chống
chọi tốt với mùa khô hạn. Cây hấp thu Mg khá đáng kể, cần khoảng bằng một nữa
Canxi.
Hàm lượng Mg trong lá biến động từ 2,5 – 3,5g/kg trọng lượng khô. Lượng
Mg trao đổi trong đất cần thiết cho cây sinh trưởng phát triển tốt là 0,8 – 1,0
cmol/kg.
Mg là thành phần chính trong
diệp lục, là nhà máy hấp thụ năng lượng mặt trời để tổng hợp chất hữu cơ thông
qua quá trình quang hợp. Mg cũng tham gia vào các phản ứng của enzim liên quan
đến sự chuyển hóa năng lượng của cây. Ngoài ra Mg còn tham gia vào điều chỉnh
pH và cân bằng cation-anion nội bào.
Magiê được bón thông qua bón phân Lân nung chảy (chứa khoảng 18% MgO),
Đôlômite (chứa khoảng 18 - 20% MgO), Magiê Sulphate (chứa khoảng 15% MgO).
Triệu chứng thiếu Mg được phát hiện trên cây ở lá già, màu vàng bắt đầu
từ gân chính, sau lan rộng ra rìa lá. Dọc theo gân chính và gân phụ còn lại
những vệt xanh thẫm tạo nên dạng hình xương cá có màu xanh trên nền vàng. Triệu chứng thiếu Mg trên là thịt lá chuyển sang màu
vàng đồng nhưng gân lá vẫn giữ màu xanh đậm. Sau
đó chuyển sang màu vàng xẫm hoặc nâu rồi rụng.
Theo những nghiên cứu thì cần bón lân nung chảy hoặc bón đôlômit đã cũng
cấp đủ Mg cho cây.
6. Lưu huỳnh (S) : Hàm lượng S trong lá biến động từ
2,0 – 4,0g/kg chất khô. Lưu huỳnh tham gia tạo thành clorophyl là thành phần
quan trọng của diệp lục đóng vai trò to lớn trong việc tổng hợp các hợp chất hữu
cơ nhờ năng lượng của ánh sáng mặt trời. Đặc biệt nó tham gia trong việc cấu
tạo các hợp chất thơm của trái, tăng cường tính chịu hạn và chịu nhiệt của cây.
Ngoài ra S là thành phần của các axit amin quan trọng trong cơ thể thực vật
(xystin, xystêin và metionin).
Thiếu S thường biểu hiện ở các lá non trên ngọn. Lá có màu vàng hoặc
trắng, bị nặng lá có thể hơi nhỏ so với bình thường. Thiếu Lưu huỳnh sẽ làm
giảm năng suất, chất lượng chanh dây rất rõ.
Hiện tượng thiếu lưu huỳnh thường hay xuất hiện ở vườn chanh dây kiến
thiết cơ bản 6 tháng đầu sau khi trồng.
Phòng trị thiếu lưu huỳnh: Hàng năm cần bón một lượng SA vào đầu mùa mưa
là cung cấp đủ S cho cây.
7. Các chất vi lượng: Là những chất cây chanh dây cần rất
ít như Đồng (Cu), Kẽm (Zn), Bo (B), Mangan (Mn), Molipden (Mo), Sắt (Fe)
a. Nguyên tố kẽm (Zn): Hàm lượng kẽm trong lá chanh biến
thiên từ 45-80ppm. Kẽm làm tăng tính chịu hạn, chịu nóng, thúc đẩy quá trình sử
dụng và chuyển hóa đạm, lân trong cây (bởi nó tham gia vào cấu trúc và hoạt hóa
các enzim). Kẽm đóng vai trò qua trọng trong quá trình phân hóa mầm hoa, thụ
phấn thụ tinh và hình thành quả. Do vậy, kẽm cần cho nhiều chức năng hóa sinh
cơ bản trong cây (tổng hợp xytochrom, nucleotit, trao đổi auxin, tạo diệp lục,
hoạt hóa men và duy trì độ bền vững của tế bào).
Thiếu
kẽm cây không phân hóa được mầm hoa, hạn chế khả năng thụ phấn của hoa. Triệu
chứng thiếu kẽm thể hiện đầu tiên ở trên ngọn hoặc các lá non ở đầu cành. Chùm
lá trên ngọn mọc sát nhau, rìa lá bị cong cả hai bên và có dạng hình mũi mác,
lá có màu xanh vàng nhạt, đốt bị ngắn lại, nên người ta thường gọi là bệnh rụt
cổ. Các chồi non phát triển chậm, không vươn ra được. Khi thiếu trầm trọng, lá
bị chết và rụng. Thiếu kẽm làm cho cây không thể phát triển được, năng suất rất
thấp dù có bón nhiều phân đa lượng. Hàm lượng Zn tối ưu trong đất cho sản xuất chanh
dây là 317g/ha.
Khắc phục: Cần bổ sung các loại phân có chứa kẽm định kỳ để đáp ứng cho
nhu cầu của cây. Khi thiếu kẽm cần phu dung dịch sunphat kẽm (ZnSO4.7H2O)
với nồng độ 0,2 – 0,3% vào tháng 6 hoặc tháng 7 phun 2 lần mỗi lần cách nhau 20
-25 ngày trong 1 năm (De Gues, 1967).
b. Nguyên tố Bo (B): Hàm lượng Bo trong lá cây dao động
từ 2,0 – 4,0 ppm.
Bo có vai trò hàng đầu trong việc xây dựng cấu trúc và tạo độ bền chắc
cho màng nguyên sinh chất, cần cho sự trao đổi hydrat cacbon, vận chuyển đường,
tổng hợp nucleotit và lignin hóa thành tế bào.
Với
cây chanh dây Bo có vai trò trong việc tăng số đốt, số cành dự trữ, tăng số mầm
hoa, Bo cũng có tác dụng kích thích sự nảy mầm của hạt phấn, sự tăng trưởng của
túi phấn, giúp cho quá trình hình thành quả xảy ra thuận lợi, ngoài ra trong
trái chanh dây, Bo chứa khoảng 11% lượng Bo cây hút lên.
Khi
thiếu Bo lá bị nhỏ lại và ngắn hơn, các chồi ngọn hay bị khô, các cành ngang hay
bị chết. Hiện tượng cành thứ cấp mọc thành chum có dạng hình rẽ quạt, chóp lá
có màu xanh ôliu hay xanh vàng nhạt ở nữa cuối lá. Thiếu Bo làm số hoa ít, tỷ lệ đậu
quả thấp, quả non rụng nhiều, năng suất và chất lượng thấp. Sự thiếu hoặc thừa
Bo có quan hệ chặt chẽ với hàm lượng canxi trong lá. Nếu canxi trong lá cao thì
mức độ ngộ độc Bo giảm, ngược lại nếu hàm lượng canxi thấp thì dù nồng độ Bo
thấp cây cũng có thể bị ngộ độc.
c. Nguyên tố đồng (Cu): Đồng cần cho việc tổng hợp lignin do
vậy đóng góp vào việc bảo vệ màng tế bào. Đồng xúc tiến việc oxy hóa axit
ascorbic, hoặc hóa các men oxidaz, phenolaz và plastoxyanin. Đồng đóng vai trò
then chốt trong các quá trình: trao đổi đạm, protein và hoocmon; quang hợp và
hô hấp; hình thành hạt phấn và thụ tinh. Trong lá chanh dây Đồng chứa khoảng
5,2g/kg chất khô. Thiếu Đồng chỉ cần phun phân bón lá có chứa Đồng cao là đáp
ứng đủ nhu cầu Đồng cho cây.
d. Nguyên tố sắt (Fe): Sắt cần cho việc vận chuyển electron
trong quá trình quang hợp và các phản ứng ôxy hóa-khử trong tế bào. Sắt nằm
trong thành phần của Fe-porphyrin và Ferrodoxin, rất cần cho pha sáng của quang
hợp. Sắt tham gia hoạt hóa nhiều enzim như: catalaz, sucxinic dehydrogenaz và
aconitaz.
Hàm
lượng Sắt trong lá từ 100 - 200ppm. Sắt làm cho màu sắc của quả khi chín sẽ đẹp
hơn đồng thời làm cho lá có màu xanh làm tăng khả năng quan hợp của cây.
Thiếu sắt các lá non hơi chuyển vàng song gân lá vẫn còn xanh có dạng
hình mắt lưới. Khi bị thiếu sắt thì
hàm lượng Sắt trong lá biến động từ 15 - 35ppm. Thiếu Sắt việc hút K bị hạn
chế. Hàm lượng lân trong đất cao cũng có ảnh hưởng đến Sắt hữu hiệu, bởi vì sự
tương tác giữa Fe-P. Vì vậy, bón nhiều lân có thể dẫn đến cây thiếu Fe.
e.
Nguyên tố mangan (Mn):
Trong lá cây chanh dây Mangan dao động từ 50 – 200ppm. Mangan có vai trò
xúc tiến quá trình quang hợp của cây xảy ra tốt hơn, ngoài ra Mangan còn làm
tăng màu sắc của trái khi chín do vây để cho màu sắc quả chanh dây đẹp cần nhất
thiết phải bón đủ Mangan trong giai đoạn kinh doanh. Trên đất có pH thấp rất hiếm
xảy ra hiện tượng thiếu Mangan. Tuy nhiên đối với đất rất chua thì ngộ độc
Mangan lại dễ xảy ra.
Thiếu mangan: Các cặp lá trưởng thành trên đầu cành chuyển từ màu vàng
sang xanh nhạt, hay từ xanh ô liu thành màu vàng có đốm trắng, lá rụng nhiều,
Thiếu mangan dẫn tới năng suất thấp, chất lượng giảm. Thiếu Mangan thì lá ở đầu
cành (cặp lá trưởng thành cuối cùng) từ màu vàng hơi xanh sang màu vàng vỏ
chanh có xen vệt trắng. Lúc này hàm lượng Mangan trong lá từ 10 - 20ppm.
*
Tóm lại, tác động của các nguyên tố đa, trung và vi lượng đến sinh trưởng và
hình thành năng suất chanh dây là rất lớn. Các nguyên tố trên không chỉ tham
gia vào quá trình sinh trưởng, phát triển, cấu thành năng suất mà còn tham gia
vào tạo chất lượng quả. Việc bón phân cân đối để khai thác được hết hiệu quả
của phân bón là vấn đề cần được quan tâm và có ý nghĩa rất lớn cho nông nghiệp
nói chung và ngành sản xuất chanh dây nói riêng. Thực hiện bón phân theo 4 đúng
(đúng lúc, đúng kỹ thuật, đúng liều lượng – tỉ lệ, đúng loại phân) giảm chi phí
cho sản xuất, nâng cao hiệu quả phân bón và hạn chế được tác động xấu của phân
khoáng vô cơ đến môi trường.
8. Bón phân cho
chanh dây giai đoạn kiến thiết cơ bản (1-6 tháng tuổi):
+ 7 ngày sau khi trồng cần bón phân NPK: 20-20-15 với lượng
35g/gốc.
+ 14 ngày sau trồng bón phân NPK: 20-20-15 với lượng 35g/gốc.
+ 30 ngày sau trồng tiến hành bón phân NPK 20-20-15 với lượng
50g/gốc.
+ 45 ngày sau trồng tiến hành bón phấn NPK 20-20-15 với lượng
50g/gốc.
+ 90 ngày sau trồng bón phân NPK 20-20-15 với lượng 75g/gốc.
+ 120 ngày sau trồng bón phân NPK 20-20-15 với lượng 100g/gốc.
+ 150 ngày sau trồng bón phân NPK 20-20-15 với lượng 100g/gốc.
Lúc này cây chanh dây bắt đầu ra hoa bói và nuôi trái non cần tăng lượng phân
và đổi loại phân bón có hàm lượng kali cao.
* Nếu dùng phân đơn: Ure: 400g; SA: 100g; super lân: 600g; KCl: 300g (tính cho 1 gốc) tổng lượng
trên nên chia bón cho 6 tháng, các lần bón cách nhau 15 đến 20 ngày.
Đồng thời trong giai đoạn này cần phun bổ sung phân bón lá có
chứa hàm lượng trung vi lượng cao để cung cấp đầy đủ vi lượng cho cây (đối với
phân bón vi lượng phun qua lá là hiệu quả nhất).
9. Bón phân cho
chanh dây giai đoạn kinh doanh
Vì cây chanh dây ra hoa và thu hoạch liên tục trong giai đoạn
kinh doanh, chu kỳ thu hoạch chanh khoảng 6 tháng thì bắt đầu ngưng kiến thiết
lại vườn, do vậy trong thời gian này cũng cần tăng nguồn dinh dưỡng để cây đủ
dinh dưỡng nuôi trái và tái sản xuất. Do đó, lượng phân bón cần tăng lên và cần
chia làm nhiều lần bón để tránh thiếu hụt dinh dưỡng.
Đối với phân NPK chọn những dòng có hàm lượng kali cao và mỗi
lần bón khoảng 150 đến 200g/gốc và cách 15 đến 20 ngày bón 1 lần, đồng thời
trong gia đoạn này cần bổ sung thêm phân hữu cơ (phân chuồng ủ hoai hoặc phân hữu
cơ sinh học chế biến), phân chuồng cần bón với lượng khoảng 5kg/gốc nếu phân hữu
cơ chế biến khoảng 1 – 2kg/gốc.
* Nếu dùng phân đơn: Ure: 1kg; SA: 300g; super lân hoặc lân nung chảy: 1,0kg hoặc DAP: 400g; KCl:
1,5kg (tính cho 1 gốc/năm) tổng lượng trên nên chia bón cho 1năm, các lần bón
cách nhau 15 đến 20 ngày.
Đồng thời giai đoạn này cũng cần hỗ trợ dinh dưỡng thông qua
lá bằng cách phun các loại phân bón lá: Vì cây ra hoa và nuôi trái liên tục nên
cần chú ý phun phân bón là với các hàm lượng khác nhau để cân bằng dinh dưỡng
cho cây cả đa trung và vi lượng.
10. Quy trình và kỹ
thuật bón phân:
Đối với chanh dây cây cần nhiều dinh dưỡng nhưng liên tục nhất
là trong thời kỳ ra hoa và nuôi trái do vây lượng phân bón cần phải chia ra làm
nhiều đợt bón để tránh lãng phí khi cây không ăn hết hoặc tránh hiện tượng cây
thiếu dinh dưỡng trong thời gian dài khi khoảng cách giữa các lần bón quá xa
nhau như vậy tốt nhất khoảng 15 đến 20 ngày nên bón 1 lần.
Khi cây mới trồng cần bón cách gốc 5cm rãi phân đều quanh gốc
và dùng cuốc lấp đất lại để tránh hiện tượng gặp nắng bốc hơi hay gặp mưa quá
to rửa trôi. Khi cây đã leo giàn cần bón cách gốc từ 30 – 35cm, cũng rải phân đều
quanh bồn sau đó dùng cào xới đều cho phân lẫn vào đất.
Tiến sĩ Lâm Văn Hà –
Trung tâm Nghiên cứu Đất, Phân bón và Môi trường phía Nam